Thứ Bảy, 16 tháng 7, 2016

GƯƠNG DANH NHÂN NƯỚC VIỆT

GƯƠNG DANH NHÂN NƯỚC VIỆT

Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người ta"

[<font] 

Đạp cơn sóng dữ quậy ngông cuồng
Chém cá tràng kình dậy biển Đông
Giúp nuớc xây nhà xua giặc mạnh
 
Dương cờ khởi nghĩa dựng binh hùng

 Bồ Điền[ 1] giữa trận so đao kiếm
Non Việt bên trời lập chiến công
Nữ tướng Nhụy Kiều danh nỗi tiếng [3]
Ngàn sau rạng rỡ núi non Tùng [ 4] 
  Dương Lam

 

[1] Bồ- Điền : căn cứ địa xảy ra những trận chiến quyết liệt giữa quân Bà và quân Ngô... 
[2]  Nhụy Kiều : Vị tướng yêu kiều như nhuỵ hoa.
[3]  non Tùng : Nơi Bà tuẫn tiết...sau có đền thờ Bà...
--------------------------------------------------------------
Cuộc Khởi Nghĩa Của Triệu Thị Trinh (248)
(Bà Triệu)
"Muốn coi lên núi mà coi
Có Bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng"
Khi nói đến gương anh hùng liệt nữ, đến truyền thống đấu tranh xâm lược của ngoại bang, người Việt Nam qua nhiều thời đại thường không quên nhắc đến cái tên Bà Triệu bên cạnh các gương liệt nữ khác như Hai Bà Trưng...
Triệu thị Trinh sinh ngày 2 tháng 10 nǎm 226 (Bính Ngọ) tại huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hoá trong một gia đình hào trưởng. Triệu thị Trinh là một phụ nữ có tướng mạo kỳ là, người cao lớn vú dài nǎm thước. Bà là người tính tình vui vẻ, khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, trí lực hơn người. Truyền thuyết kể rằng, có lần xuất hiện một coi voi trắng một ngà phá phách ruộng nương, làng xóm, làm chết người. Triệu Thị Trinh dũng cảm cầm búa nhảy lên dùng tài làm con voi lạ gục đầu xin qui thuận.
Khi nhà Ngô xâm lược đất nước gây nên cảnh đau thương cho dân chúng, khoảng 19 tuổi Triệu thị Trinh bỏ nhà vào núi xây dựng cǎn cứ, chiêu mộ nghĩa quân đánh giặc. Khi anh trai nhắn về nhà gả chồng, bà đã trả lời tỏ rõ khí phách của mình mà đến nay không mấy người Việt Nam là không biết: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá Kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ tôi không chịu khom lưng là tì thiếp người ta". Truyền thuyết kể rằng, nǎm 248 khi Triệu Thị Trinh khởi nghĩa trời đã sai đá núi loan tin tập hợp binh sĩ trong vùng. Đêm khuya từ lòng núi đá phát ra rằng: "Có Bà nữ tướng. Vâng lệnh trời ra. Trị voi một ngà. Dựng cờ mở nước. Lệnh truyền sau trước. Theo gót Bà Vương". Theo đó dân chúng trong vùng hưởng ứng nhiệt liệt, có người mang theo cả bộ giáp vàng, khǎn vàng.... dâng cho bà. Anh trai bà là Triệu Quốc Đạt được tôn làm Chủ tướng. Bà Triệu là Nhuỵ Kiều tướng quân (Vị tướng yêu kiều như nhuỵ hoa). Khi ra trận Bà mặc áo giáp vàng, chít khǎn vàng, đi guốc ngà, cưỡi voi một ngà. Quân Bà đi đến đâu dân chúng hưởng ứng, quân thù khiếp sợ. Phụ nữ quanh vùng thúc giục chồng con ra quân theo Bà Vương đánh giặc. Cho đến nay nhân dân vùng Thanh Hoá và lân cận còn nhiều câu ca, lời ru con nói về sự kiện này.
Sau hàng chục trận giao tranh với giặc, trận thứ 39 anh trai bà là Triệu Quốc Đạt tử trận, Bà Triệu lên làm chủ tướng và lập nên một cõi giang sơn riêng vùng Bồ Điền khiến quân giặc khó lòng đánh chiếm. Biết bà có tính yêu sự trong sạch , ghét quân dơ bẩn, quân giặc bố trí một trận đánh từ tướng đến quân đều loã thể. Bà không chịu được chiến thuật đê hèn đó phải lui voi giao cho quân sĩ chiến đấu rồi rút về núi Tùng. Bà quì xuống vái trời đất: "Sinh vi tướng, tử vi thần" (Sống làm tướng, chết làm thần) rồi rút gươm tự vẫn.
Đến nay chuyện Bà Triệu từ thế kỷ thứ II vẫn còn hằn đậm trong tâm thức mỗi người Việt Nam với lòng ngưỡng mộ và tự hào. Lǎng và đền thờ Bà vẫn còn mãi với thời gian tại huyện  Hậu Lộc tỉnh Thanh Hoá là di tích lịch sử quan trọng của quốc gia là bằng chứng về niềm tự hào một người phụ nữ liệt oanh của Dân tộc Việt Nam. 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 05.09.2014 10:21:40 bởi duonglam >

 
    duonglam
    "Super Member"
    • Số bài : 1906
    • Điểm: 0
    • Điểm thưởng : 0
    • Từ: 31.08.2010
    • Trạng thái: offline


    Re:THƯƠNG VỀ ĐẤT MẸ 14.09.2014 10:33:48 (permalink)
    0
     
     
    Gương danh nhân:

    "Thà làm quỉ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc:"...
    TRẦN BÌNH TRỌNG  
     
     
    Trời Nam anh kiệt dậy uy danh
    Bình Trọng ngày xưa rạng sử xanh
    Đà- Mạc chặn thù -ngăn Thát Đát
    Thiên -Trường phò chúa- giúp Vua Trần 
    “Làm vương đất Bắc?”- sống ô nhục ?...
    “...Thà quỷ nước Nam “- chết hiển vinh...
      Mắng giặc núi rừng vang dội tiếng
    Hùm thiêng thất thế vẫn oai linh...

    Duonng Lam
    ----------------------------------
    BÀI ĐỌC CHI TIẾT

    Trần Bình Trọng
    Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

    Trần Bình Trọng (chữ Hán: 陳平仲, 1259[1] - 1285) là danh tướng thời Trần, có công lớn hộ giá bảo vệ cho hai vua Trần (Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông) trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên-Mông lần thứ hai. Ông hy sinh khi chặn quân Nguyên ở bãi Thiên Mạc[2][3], được truy phong làm Bảo Nghĩa Vương.

    Xuất thân
    Trần Bình Trọng thuộc dòng dõi Đại Hành Hoàng Đế Lê Hoàn quê gốc ở vùng nay là huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa[1], sinh ở xã Bảo Thái, nay thuộc huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam[cần dẫn nguồn]. Vợ Trần Bình Trọng là công chúa Thụy Bảo (Thụy Bảo đã có một đời chồng trước là Uy Văn Vương Toại). Sau này, con gái của Trần Bình Trọng, Chiêu Hiến Hoàng thái hậu, là mẹ của Trần Minh Tông, vua thứ năm triều Trần. Sử sách không ghi chép cha mẹ ông là ai. Tuy nhiên, có tài liệu nói phụ thân ông là danh tướng thời Trần Thái Tông là Lê Phụ Trần. Lê Phụ Trần lập công lớn trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất, nên được vua gả công chúa Chiêu Thánh cho.

    Trận đánh chiến lược
    Tháng 1 năm 1285, 50 vạn quân Nguyên-Mông do Trấn Nam Vương Thoát Hoan, con trai của Hoàng đế nhà Nguyên Hốt Tất Liệt, cầm đầu chia quân làm hai cánh tấn công xâm lược Đại Việt. Quân Nguyên Mông là đạo quân cực kỳ thiện chiến, nhanh chóng chiếm ưu thế tuyệt đối trước quân Đại Việt, ít hơn và không quen chiến trận. Sau thất bại trong vài trận đánh mở màn, tổng tư lệnh quân Đại Việt, Quốc công tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn quyết định lui quân về giữ Vạn Kiếp (nay thuộc vùng Vạn Yên, Chí Linh, Hải Dương). Sau đó, quân Đại Việt lui về Thăng Long, nhưng cũng không giữ được trước sức tấn công ồ ạt của quân Nguyên.
    Hưng Đạo Vương quyết định rút khỏi Thăng Long, lui về Thiên Trường (nay là tỉnh Nam Định). Trần Bình Trọng được Hưng Đạo Vương và hai vua Trần giao cho một nhiệm vụ nặng nề: giữ vùng Đà Mạc - Thiên Mạc, ngăn chặn và cầm chân quân Nguyên, đảm bảo cho bộ chỉ huy quân kháng chiến rút lui an toàn và bí mật, không để lại dấu vết. Tư lệnh quân Nguyên là Thoát Hoan đặc biệt ưu tiên cho cánh quân truy đuổi này với hai đạo cả thủy lẫn bộ đều do những tướng giỏi, hữu thừa Khoan Triệt và tả thừa Lý Hằng cùng Ô Mã Nhi, chỉ huy, đều dùng quân khinh kỵ và thuyền nhẹ để truy đuổi bằng được hai vua Trần.
    Trần Bình Trọng đã tổ chức cuộc đánh chặn ngay tại bãi Thiên Mạc. Do sự chênh lệch quá lớn về quân số, Trần Bình Trọng bị bắt, nhưng trận đánh là một thắng lợi cực kỳ quan trọng về mặt chiến lược với cuộc kháng chiến khi kể từ đó, quân Nguyên hoàn toàn mất dấu bộ chỉ huy kháng chiến.
    Anh dũng hy sinh
    Sau khi bắt được Trần Bình Trọng, tướng Nguyên tìm mọi cách để khai thác thông tin, dọa nạt, dụ dỗ ông. Tuy nhiên, Trần Bình Trọng kiên quyết không khuất phục. Khi được hỏi có muốn làm vương đất bắc không, Trần Bình Trọng khẳng khái trả lời:

    Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Ta đã bị bắt thì có một chết mà thôi, can gì mà phải hỏi lôi thôi.
    ” Đó là một trong những câu nói nổi tiếng nhất trong lịch sử chống ngoại xâm cũng như lịch sử Việt Nam nói chung, trở thành một trong những biểu tượng của tinh thần yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc Việt. Không thể khuất phục được Trần Bình Trọng, quân Nguyên buộc phải giết ông vào ngày 21 tháng Giêng[7] năm Ất Dậu (26-2-1285),
     còn Đại Việt Sử ký Toàn thư (Bản kỷ quyển 5) và Khâm định Việt sử thông giám Cương mục (Chính biên quyển thứ 7) đều chép là tháng 2 (âm lịch) năm 1285. Năm đó, Trần Bình Trọng 26 tuổi.

    Đánh giá
    Trần Bình Trọng được các sử gia đời sau đánh giá rất cao vì lòng yêu nước và tinh thần chống ngoại xâm, trở thành một ví dụ điển hình cho các cuộc kháng chiến chống phương Bắc sau này.

    Trong các tác phẩm văn học
    Có hai bài thơ nổi tiếng viết về Trần Bình Trọng của Trần Tuấn Khải và Phan Kế Bính.
    Nội dung bài thơ của Phan Kế Bính như sau:

    Giỏi thay Trần Bình Trọng!
    Dòng dõi Lê Đại Hành.
    Đánh giặc dư tài mạnh,
    Thờ vua một tiết trung.
    Bắc vương sống mà nhục,
    Nam quỷ thác cũng vinh.
    Cứng cỏi lòng trung nghĩa.
    Ngàn thu tỏ đại danh.

    Ngoài ra, còn có một tiểu thuyết, Bên bờ Thiên Mạc, của nhà văn Hà Ân viết về Trần Bình Trọng và trận đánh của ông. 


    <bài viết được chỉnh sửa lúc 14.09.2014 10:36:01 bởi duonglam >
     
      duonglam
      "Super Member"
      • Số bài : 1906
      • Điểm: 0
      • Điểm thưởng : 0
      • Từ: 31.08.2010
      • Trạng thái: offline


      Re:THƯƠNG VỀ ĐẤT MẸ 20.09.2014 08:30:58 (permalink)
      0
       
      VẠN DẶM KIẾM HỒNG TUNG VÓ NGỰA
      [Trích QUÊ HƯƠNG VÀ TÌNH YÊU]

      Muôn câu ý đẹp tình thêm đẹp,
      Rượu tiễn chàng đi bước hải hồ.[5]

       
      Vạn dặm kiếm hồng tung vó ngựa,
      Ngàn năm khuê các dậy lầu thơ...[6]
      Ta vây Khương thượng - giặc tan vỡ,
      Địch đến Nhị hà-  nươc nghẽn bờ.[7]
      Thây giặc chất cao thành gò Đống,[8]
      Thanh triều nửa tĩnh nửa như mơ...[9] 
      Duong Lam
      ---------------------------------------------
      Chú thích:
      [5] Cuối năm 1788, Càn Long sai Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị chỉ huy 29 vạn quân Thanh hộ tống Lê Chiêu Thống về Đại Việt với danh nghĩa “phù Lê”, vào chiếm đóng Thăng Long.Quân Tây Sơn do Đại tư mã Ngô Văn Sở, theo mưu kế … , chủ động rút quân về đóng ở Tam Điệp - cố thủ chờ lệnh. Nghe tin báo, ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân , Nguyễn Huệ thống lãnh đại quân tiến ra Bắc. Ngọc Hân công chúa tức Hữu cung hoàng hậu tiễn đưa [ …Rượu tiển chàng đi bước hải hồ , Vạn dặm kiếm hồng tung vó ngựa …]
      [6]. Ngọc Hân Công chúa là một cô gái thông minh, một nữ sĩ tài hoa ,hương sắc vẹn toàn .Từ nhỏ đă được học thông kinh sử và giỏi thơ văn .Bà đã nỗi tiếng trong làng thơ nôm với bài “Ai tư vãn” gồm 164 câu,theo thể song thất lục bát ca tụng chiến công vua Quang Trung Nguyễ n Huệ [ Ngàn năm khuê cát dậy lầu thơ…]
      [7,8] Đêm 30 tháng Chạp âm lịch Quang Trung đánh diệt các đồn Nguyệt Quyết, Nhật Tảo, dụ hàng được đồn Hà Hồi. Đêm mồng 4 Tết, Quang Trung tiến đến trước đồn lớn nhất của quân Thanh là Ngọc Hồi nhưng dừng lại chưa đánh khiến quân Thanh lo sợ, phần bị động không dám đánh trước nhưng cũng không biết bị đánh lúc nào. Trong khi đó cánh quân của đô đốc Long bất ngờ tập kích đồn Khương Thượng khiến quân Thanh không kịp trở tay, hàng vạn quân lính bỏ mạng. [Ta vây Khương Thượng giặc tan vỡ …] Chủ tướng Sầm Nghi Đống tự vẫn. Xác quân Thanh chết sau xếp thành 13 gò đống lớn,có đa mọc um tùm nên gọi là gò Đống Đa. [Thây giặc chất cao thành Gò Đống…]
      Sáng mồng 5, Quang Trung mới cùng đô đốc Bảo tấn công vào đồn Ngọc Hồi. Trước sức tấn công mãnh liệt của Tây Sơn, quân Thanh bị động thua chết hàng vạn, phần lớn các tướng bị giết.Trong khi Quang Trung chưa đánh Ngọc Hồi thì Tôn Sĩ Nghị nghe tin đô đốc Long đánh vào Thăng Long, cuống cuồng sợ hãi đã bỏ chạy trước. Đến sông Nhị Hà, sợ quân Tây sơn đuổi theo, Tôn Sĩ Nghị hạ lệnh cắt cầu khiến quân Thanh rơi xuống sông chết rất nhiều làm dòng sông bị nghẽn dòng chảy. [Địch đến Nhị hà nước nghẽn bờ ]… Trên đường tháo chạy, Tôn Sĩ Nghị bị hai cánh quân Tây Sơn của đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc chặn đánh, tơi tả chạy thoát sang bên kia biên giới. Quân Tây Sơn đuổi theo và rao lên rằng sẽ đuổi qua biên giới cho đến khi bắt được Tôn Sĩ Nghị và Chiêu Thống mới thôi. Bởi thế dân Tàu ở biên giới dắt nhau bỏ chạy làm cho suốt năm sáu chục dặm đường không có bóng người và trâu bò súc vật…
      Như vậy, sớm hơn dự kiến, chỉ trong vòng 6 ngày với kế hoạch tốc chiến tốc thắng ,với thiên tài mưu lược về quân sự của Nguyễn Hụê , quân Tây Sơn với quân số 10 vạn [phần lớn là dân quân chưa được tập luyện] đã đánh tan 29 vạn quân Thanh , lập nên một kỳ công hiển hách nhất trong lịch sữ nước ta và cả thế giới...Trưa mồng 5 Tết xuân Kỹ Dậu, Quang Trung với chiến bào đầy khói đen ,trên mình voi nhuộm đầy khói súng tiến vào thành Thăng Long trong sự vui mừng hã hê chào đón của toàn dân. … [Sau này khi nhớ lại lời hứa hẹn 10 năm sau vua Quang Trung sẽ lấy lại 2 tỉnh Quảng đông và Quảng tây mà Tàu đã chiếm của nước Nam ta trước kia không phải là lời nói quá nếu nhà vua không mất sớm…]!!!
      [9]Tin bại trận đưa về, Càn long mắt nhắm mắt mở, nửa tĩnh nửa mê…Thôi rồi giấc mộng đế quốc bành trướng của triều Thanh tan tành thành mây khói…[Thanh triều nửa tĩnh nửa như mơ…]
      [ thơ Dương Lam ]
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 20.09.2014 08:35:00 bởi duonglam >
       
        duonglam
        "Super Member"
        • Số bài : 1906
        • Điểm: 0
        • Điểm thưởng : 0
        • Từ: 31.08.2010
        • Trạng thái: offline


        Re:THƯƠNG VỀ ĐẤT MẸ 21.09.2014 06:52:05 (permalink)
        0
        BẮC BÌNH VƯƠNG NGUYỄN HUỆ VÀ ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN KỶ DẬU [1789]
         
         
        Như mơ ngày Tết xuân năm ấy
        Nguyễn Huệ oai hùng giữa núi sông. 
         


         Áo trận thơm nồng xuân Kỷ Dậu,
        Giáp bào rạng rỡ đất Thăng Long. 
         Trời Nam Lừng Lẫy Trang Hào Kiệt,
        Sử Việt Vang Danh Giống Lạc Hồng.
        Thắp nén hương lòng dâng Tổ Quốc,
        KHÓI TRẦM LỘNG GIÓ QUYỆN TRỜI ĐÔNG...
        Duong Lam

        ----------------------------------------------
        Chiến thắng XUÂN KỶ DẬU (1789)

        Bài chi tiết: Trận Ngọc Hồi - Đống Đa, Trận Hà Hồi, Trận Ngọc Hồi, Trận Đống Đa, và Trận Thăng Long

        Thần tốc bắc tiến

         
        Trận Ngọc Hồi - Đống Đa

        Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc, cầu viện hoàng đế nhà Thanh là Càn Long. Cuối năm 1788, Càn Long sai Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị chỉ huy 29 vạn quân Thanh hộ tống Lê Chiêu Thống về Đại Việt với danh nghĩa “phù Lê”, vào chiếm đóng Thăng Long.

        Quân Tây Sơn do Đại tư mã Ngô Văn Sở, theo mưu kế của Ngô Thì Nhậm,[41][42] Phan Huy Ích và các mưu thần khác, chủ động rút quân về đóng ở Tam Điệp - Biện Sơn cố thủ chờ lệnh.[43]

        Nghe tin báo, ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22 tháng 12 năm 1788), Nguyễn Huệ xuất quân tiến ra Bắc Hà. Để lấy danh nghĩa chính thống, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung.
        Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân (26 tháng 12 năm 1788), đại quân của hoàng đế Quang Trung tới Nghệ An, dừng quân tại đó hơn 10 ngày để tuyển quân và củng cố lực lượng, nâng quân số lên tới 10 vạn,[44][45] tổ chức thành 5 đạo quân: tiền, hậu, tả, hữu và trung quân, ngoài ra còn có một đội tượng binh gồm 200 voi chiến. Quang Trung còn tổ chức lễ duyệt binh ngay tại Nghệ An để khích lệ tinh thần và ý chí quyết chiến, quyết thắng của tướng sĩ đối với quân xâm lược Mãn Thanh. Ngay sau lễ duyệt binh, Quang Trung tiến quân ra Bắc Hà.

        Tôn Sĩ Nghị coi thường quân Tây Sơn, sau nghe lời các tướng của Chiêu Thống thì có lo đôi phần, hẹn mồng 6 Tết ra quân đánh Tây Sơn.

        Ngày 20 tháng Chạp năm Mậu Thân (15 tháng 1 năm 1789), đại quân của Quang Trung đã ra đến Tam Điệp. Sau khi xem xét tình hình, Quang Trung hẹn ba quân ngày mồng 7 Tết sẽ quét sạch quân Thanh, vào ăn Tết ở Thăng Long.

        Quang Trung chia quân làm 5 đạo. Một cánh do đô đốc Long chỉ huy từ làng Nhân Mục tập kích đồn Khương Thượng và phía Tây Thăng Long. Cánh đô đốc Bảo tiến đánh các đồn phía Nam Thăng Long. Trung quân do đích thân Quang Trung chỉ huy, phối hợp với đô đốc Bảo đánh diệt các đồn phía Nam Thăng Long. Cánh đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc theo đường biển ra Bắc, chặn đường lui của địch ở phía Bắc sông Nhị Hà và huyện Phượng Nhãn.

        Đêm 30 tháng Chạp âm lịch, quân Tây Sơn đánh diệt đồn Gián Khẩu của các tướng Lê Chiêu Thống. Sau đó Quang Trung đánh diệt các đồn Nguyệt Quyết, Nhật Tảo, dụ hàng được đồn Hà Hồi. Đêm mồng 4 Tết, Quang Trung tiến đến trước đồn lớn nhất của quân Thanh là Ngọc Hồi nhưng dừng lại chưa đánh khiến quân Thanh lo sợ, phần bị động không dám đánh trước nhưng cũng không biết bị đánh lúc nào. Trong khi đó cánh quân của đô đốc Long bất ngờ tập kích đồn Khương Thượng khiến quân Thanh không kịp trở tay, hàng vạn lính bỏ mạng. Chủ tướng Sầm Nghi Đống tự vẫn. Xác quân Thanh chết sau xếp thành 13 gò đống lớn,[46] có đa mọc um tùm nên gọi là gò Đống Đa.

        Đô đốc Long tiến vào đánh phá quân địch phòng thủ ở Tây Long. Sáng mồng 5, Quang Trung mới cùng đô đốc Bảo tổng tấn công vào đồn Ngọc Hồi. Trước sức tấn công mãnh liệt của Tây Sơn, quân Thanh bị động thua chết hàng vạn, phần lớn các tướng bị giết.[47] Trong khi Quang Trung chưa đánh Ngọc Hồi thì Tôn Sĩ Nghị nghe tin đô đốc Long đánh vào Thăng Long, cuống cuồng sợ hãi đã bỏ chạy trước. Đến sông Nhị Hà, sợ quân Tây sơn đuổi theo, Tôn Sĩ Nghị hạ lệnh cắt cầu khiến quân Thanh rơi xuống sông chết rất nhiều làm dòng sông bị nghẽn dòng chảy. Trên đường tháo chạy, Tôn Sĩ Nghị bị hai cánh quân Tây Sơn của đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc chặn đánh, tơi tả chạy về. Lê Chiêu Thống hớt hải chạy theo Nghị thoát sang bên kia biên giới. Quân Tây Sơn đuổi theo và rao lên rằng sẽ đuổi qua biên giới đến khi bắt được Tôn Sĩ Nghị và Chiêu Thống mới thôi. Bởi thế dân Trung Quốc ở biên giới dắt nhau chạy làm cho suốt vài chục dặm không có người.[48][49]

        Như vậy, sớm hơn dự kiến, chỉ trong vòng 6 ngày, quân Tây Sơn đã đánh tan quân Thanh. Trưa mồng 5 Tết, Quang Trung tiến vào thành Thăng Long trong sự chào đón của nhân dân.

        Ngô Ngọc Du là một nhà thơ đương thời, đã ghi lại không khí tưng bừng của ngày chiến thắng oanh liệt đó trong một bài thơ:


        Giặc đâu tàn bạo sang điên cuồng
        Quân vua một giận oai bốn phương
        Thần tốc ruỗi dài xông thẳng tới,
        Như trên trời xuống dám ai đương

        Một trận rồng lửa giặc tan tành,
        Bỏ thành cướp đó trốn cho nhanh
        Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến,
        Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh

        Mây tạnh mù tan trời lại sáng
        Đầy thành già trẻ mặt như hoa,
        Chen vai khoác cánh cùng nhau nói:
        "Kinh đô vẫn thuộc núi sông ta"

        [nguồn Wikipedia]

        VƯỜN THƠ TÌNH BẠN --NHỔ KHOAN --LỊCH SỬ

        VƯỜN THƠ TÌNH BẠN
         
         
        Thu về lá rụng khắp nơi nơi ,
        Nhung nhớ chi mô dạ rối bời .
        Đêm lụn nằm nghe cơn gió thổi ,
        Ngày tàn ngồi nhặt cánh thơ rơi.
        Tình ai ý gởi chưa tròn ý ?
        Nghĩa bạn lời trao chửa vẹn lời .
        Một mảnh vườn thơ hoa với mộng,
        Nghĩa tình xướng họa để vui chơi…
         
        Tú lang thang
        ====


        NHỔ KHOAN

        [họa thơ Lê Đăng Mành...]


        Nhìn kỹ mà coi bọn Hán man

        Bày mưu 9 đoạn quá tham tàn

        Biển người lấn giựt quân ăn cướp

        Đất bạn tranh giành lũ ác gian

        Miệng nói “đệ huynh” tình hữu hảo…

        Gươm đâm “bè bạn “nghĩa sao bàn?

        Mặt người dạ thú bao nham hiểm

        Dân Việt biết rồi :   QUYẾT NHỔ KHOAN...

        Dương Lam

         



          Re:THƯƠNG VỀ ĐẤT MẸ 20.05.2014 12:42:08 (permalink)

          ===============


          LỊCH SỬ

          Tiệc chửa tàn canh,rượu chớ say
          Còn đây ta hẹn khúc quanh nầy…
          Quyết thề giữa trận vung tay kiếm
          Cùng hẹn bên trời đạn xé mây[1­
          Đất Tống bao lần thành quách đổ [2]
          Trời Nam muôn thủơ rạng kỳ đài
          Sân nhà giặc đến toàn dân đánh
          Hàm tử [3],Chi Lăng[3]…xác giặc đầy…
          Duong Lam
          [voduonghonglam]
           

          [1]
          Đạn pháo binh… bắn vòng cầu, xé mây đi…
           
          [2­­]
           Lý Thường Kiệt đánh Tống, 1075-1076
          Năm 1075, Vương An Thạch cầm quyền chính nhà Tống, tâu với vua Tống là Đại Việt bị Chiêm Thành đánh phá, quân còn sót lại không đầy vạn người, có thể dùng kế chiếm lấy được. Vua Tống sai Thẩm Khởi, và Lưu Di làm tri Quế Châu ngầm dấy binh người Man động, đóng thuyền bè, tập thủy chiến, cấm các châu huyện không được mua bán với Đại Việt.
          Vua Lý biết tin, sai ông và Tôn Đản đem hơn 10 vạn binh đi đánh. Quân bộ gồm 60.000 người do các tướng Tôn Đản, Thân Cảnh Phúc[8], Lưu Kỷ, Hoàng Kim Mãn, Vi Thủ An chỉ huy, tổng chỉ huy là Tôn Đản. Bộ binh tập trung ngay ở các châu Quảng Nguyên, Môn (Đông Khê), Quang Lang, Tô Mậu rồi tràn sang đánh các trại Vĩnh Bình, Thái Bình, Hoành Sơn, châu Tây Bình, Lộc Châu. Một cánh quân khác đóng gần biên giới Khâm châu cũng kéo tới đánh các trại Như Hồng, Như Tích và Đề Trạo, "quân ta tới đâu như vào nhà trống không người"[9].
          Lý Thường Kiệt chỉ huy 40.000 quân thủy cùng voi chiến đi đường biển từ châu Vĩnh An (Quảng Ninh) đổ bộ lên đánh các châu Khâm, Liêm; Tông Đản vây châu Ung. Ngày 30 tháng 12 năm 1075, quân Nam tiến chiếm thành Khâm Châu, bắt toàn bộ quan quân mà không phải giao chiến một trận nào. Ba ngày sau, 2 tháng 1 năm 1076, Liêm Châu cũng thất thủ[10].
          Khi được tin hai châu Khâm, Liêm đã mất, nhà Tống rất hoang mang, lo ngại, các tướng ở địa phương bối rối. Ti kinh lược Quảng Nam tây lộ vội vã xin viện binh: 20.000 quân, 3.000 con ngựa, xin thêm khí giới, đồ dùng và một tháng lương, và xin được điều động các dân khê động, tất cả lấy dọc đường từ Kinh đến Quảng Tây. Để điều khiển quân được mau chóng, ti ấy cũng xin dời đến thành Tượng, gần phía bắc Ung Châu[11].
          Trong lúc bối rối, triều đình Tống đối phó rất lúng túng. Vua Tống cách chức Lưu Di và sai Thạch Giám thay coi Quế Châu và làm kinh lược sứ Quảng Tây.
          Trên các mặt trận, quân Lý hoàn toàn làm chủ. Lý Thường Kiệt cho đạo quân ở Khâm và Liêm Châu tiến lên phía Bắc. Đạo đổ bộ ở Khâm Châu kéo thẳng lên Ung Châu. Đường thẳng dài chừng 120 cây số, nhưng phải qua dãy núi Thập Vạn. Còn đạo đổ bộ ở Liêm Châu tiến sang phía đông bắc, chiếm lấy Bạch Châu, dường như để chặn quân tiếp viện của Tống từ phía đông tới. Hẹn ngày 18 tháng 1 năm 1076, hai đạo quân sẽ cùng hội lại vây chặt lấy Ung Châu.
          Ung Châu là một thành lũy kiên cố, do tướng Tô Giám cùng với 2.800 quân cương quyết cố thủ.
          Đô giám Quảng Tây nhà Tống là Trương Thủ Tiết đem quân đến cứu. Lý Thường Kiệt đón đánh ở cửa ải Côn Lôn (nay thuộc thành phố Nam Ninh, khu tự trị Quảng Tây) phá tan được, chém Trương Thủ Tiết tại trận.
          Tri Ung Châu là Tô Giám cố thủ không hàng. Quân Đại Việt đánh đến hơn 40 ngày. Sau cùng quân Việt dùng hỏa công, bắn các chất cháy như nhựa thông vào thành, trong thành thiếu nước, không thể chữa được cháy. Cuối cùng quân Nam bắt dân Tống chồng bao đất cao đến hàng trượng để họ trèo lên thành. Ngày thứ 42, thành bị hạ, tướng chỉ huy Tô Giám tự thiêu để khỏi rơi vào tay quân Lý[12]. Người trong thành không chịu hàng, nên bị giết hết hơn 58.000 người, cộng với số người chết ở các châu Khâm, Liêm thì đến hơn 100.000[12], tuy nhiên quân Lý cũng tổn thất đến một vạn người và nhiều voi chiến[11].
          Lý Thường Kiệt làm cỏ xong thành Ung, lại lấy đá lấp sông ngăn cứu viện rồi đem quân lên phía Bắc lấy Tân Châu. Viên quan coi Tân Châu, nghe thấy quân Nam kéo gần đến thành, liền bỏ thành chạy trốn[13]. Mục tiêu hoàn thành, Lý Thường Kiệt cho rút quân về.
          Lý Thường Kiệt bắt sống người ba châu ấy đem về nước. Nhà Lý cho những người phương bắc đó vào khai phá vùng Hoan - Ái (Thanh - Nghệ).

          [3­
          Trận Hàm Tử - Tây Kết Để phòng thủ mặt phía Nam của thành Thăng Long, quân Nguyên dựng 2 căn cứ liền kề nhau ở hai bờ sông Hồng, một ở Hàm Tử Quan (cửa Hàm Tử - nay ở Khoái Châu, Hưng Yên) và một ở Chương Dương Độ (bến Chương Dương - nay ở Thượng Phúc, thuộc Thường Tín, Hà Nội). Tháng 5, Trần Quang Khải dẫn quân tấn công đồng thời 2 căn cứ này.
          Toa ĐôÔ Mã NhiThanh Hoá, Nghệ An giao chiến với quân Trần do Trần Quang Khải chỉ huy mấy lần đều bị đẩy lui. Lương thực gần cạn, tới mùa hè nóng bức, quân Nguyên không hợp thời tiết, hai tướng bèn bỏ ý định truy tìm vua Trần mà vượt biển ra bắc để hội binh với Thoát Hoan.
          Trần Quang Khải thấy quân Nguyên rút ra bắc bèn báo với vua Trần. Vua Trần cùng các tướng nhận định rằng: Quân Nguyên nếu còn mạnh, ắt truy kích vua Trần từ hai mặt nam bắc; nay cánh phía bắc không tới, cánh phía nam rút đi tức là đã mỏi mệt. Nhà Trần xác định đây là thời cơ phản công [41].
          Trần Nhân Tông sai Trần Nhật Duật làm chánh tướng, Chiêu Thành Vương[42]Trần Quốc Toản làm phó tướng đi cùng với Nguyễn Khoái mang 5 vạn quân ra bắc đuổi đánh Toa Đô. Trong quân Trần Nhật Duật có tướng người Trung Quốc của nhà Tống cũ là Triệu Trung theo hàng.
          Trần Nhật Duật gặp binh thuyền Toa Đô ở bến Hàm Tử, bèn chia quân ra đánh. Hai bên chống nhau ác liệt. Toa Đô đi đường xa, giao chiến lâu ngày đã mỏi mệt, trông thấy cờ hiệu Tống của Triệu Trung, lo lắng tưởng rằng nhà Tống đã khôi phục sang giúp Đại Việt. Nhóm quân người Hoa trong hàng ngũ quân Trần đều muốn trả thù nên đánh rất hăng.
          Trong khi đó quân Trần lại dùng kế ly gián, bắn tên gắn giấy sang bên quân Nguyên, nói rằng chỉ đánh người Thát Đát chứ không đánh người Hoa. Điều đó khiến nhiều tướng sĩ người Hoa trong quân Nguyên không tận lực chiến đấu hoặc trở giáo sang hàng quân Trần. Toa Đô bị thua to. Sau khi thua trận ở Hàm Tử Quan, Toa Đô vẫn không biết rằng Thoát Hoan đã tháo chạy. Cánh quân Toa Đô đóng ở sông Thiên Mạc[12](đoạn sông HồngHưng Yên) và tìm cách liên lạc với ông. Được ít ngày, Toa Đô biết tin quân Thoát Hoan đã thất bại và rút chạy, bèn lui về Tây Kết (Khoái Châu).Ngày 24 tháng 6 năm 1285, Trần Hưng Đạo trực tiếp chỉ huy quân đánh Toa Đô. Toa ĐôÔ Mã Nhi thua, bỏ thuyền đi đường bộ ra phía biển. Trên đường chạy, Toa Đô bị quân Đại Việt bao vây, sau cùng bị tướng Vũ Hải của nhà Trần chém đầu. Ô Mã Nhi thì chạy thoát về Thanh Hóa. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, vua Trần Nhân Tông trông thấy thủ cấp của Toa Đô thì cởi áo ngự phủ lên và nói "người làm tôi phải nên như thế này" rồi sai người khâm niệm tử tế.
          Sử liệu dẫn khác nhau về các tướng tham chiến. Có tài liệu cho rằng Trần Nhật Duật cùng Trần Quốc Toản, Nguyễn Khoái và Triệu Trung cùng đánh trận Hàm Tử [41], có tài liệu dẫn rằng chỉ có Trần Nhật Duật và Triệu Trung đánh Hàm Tử, còn Nguyễn KhoáiTrần Quốc Toản đánh trận Tây Kết.[43]
          [4­
          Trận Chi Lăng Tháng 9 năm 1427, Liễu Thăng đi đường Quảng Tây, Mộc Thạnh đi đường Vân Nam sang cứu Vương Thông. Đường Liễu Thăng đi dự tính từ Lạng Sơn, qua Xương Giang để vào Đông Quan. Lê Lợi sai Lê Sát cùng Lê Văn Linh, Lưu Nhân Chú mang 2 vạn quân và 5 voi trận lên ải Chi Lăng đón đánh.
          Ngày 8 tháng 10, cánh quân Liễu Thăng tiến vào Việt Nam. Lê Sát đặt phục binh ở Chi Lăng rồi sai tướng giữ ải là Trần Lựu mang quân ra đánh nhử, giả thua, trước tiên bỏ ải Pha Lũy về ải Chi Lăng. Quân Minh hăng hái tiến lên giành ải Pha Lũy, rồi tiến đến Chi Lăng. Ngày 20 tháng 9 (10/10 dương lịch), hai bên lại đụng nhau ở Chi Lăng, Trần Lựu lại thua chạy. Liễu Thăng dẫn quân tiên phong tiến lên trước, Lê Sát và Lưu Nhân Chú đổ ra đánh, chém được Liễu Thăng ở núi Mã Yên cùng hơn 1 vạn quân Minh.
           
          nguon :Wikipedia

          <bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2016 10:47:54 bởi duonglam >
          ===============


           
          HẬN HOÀNG SA

          Chiều mưa nghe gió Hoàng sa lạnh,
          Tráng sĩ dừng cương buốt lạnh lòng.
          Kiếm gỏ sao khuya tràn hận biển,
          Gươm mài núi khuyết ngập hờn sông.
          Vua Hùng dựng nước- ngàn son sắt,
          Dân Việt chung xây- một chữ đồng,
          Hẹn Quyết Ngày Mai Thề Lấy Lại,

          Tấc vàng tất đất của cha ông…
          Duong Lam
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.08.2014 11:47:51 bởi duonglam >

          QUE HUONG VA TINH BAN

          Re:THƯƠNG VỀ ĐẤT MẸ 18.11.2013 10:42:53 (permalink)
          0
          QUE HUONG VA TINH BAN

          Trời mây xanh ngắt cỏi bao la
          Thoắt đó mà nay tuổi đã già.
          Tóc bạc chưa tròn câu chuyện cũ,
          Dặm hồng đã mõi vó câu xa .
          Nước non nghĩa nặng lời son sắt ,
          Bè bạn tình thâm ý đậm đà .
          Rượu một bầu,thơ trăng một túi,
          Cùng vui xướng họa để ngâm nga .

          2

          Cùng vui xướng họa để ngâm nga
          Một cỏi trời thơ ta với ta.
          Nắng Hạ ngàn năm còn gội thắm ,
          Mưa Xuân muôn thuở vẫn chan hòa .
          Đất trời vũ trụ đường thong thả ,
          Danh lợi trần ai chẳng bận ta ,
          Nhắp chén trà xanh câu chuyện cổ,
          Ngàn năm âu chẳng có chi là .

          3

          Ngàn năm âu chẳng có chi là,
          Thơ rượu bên trời vỗ nhịp ca.
          Aỉ bắc sương khuya còn lãng đãng
          Trời nam mây sớm cũng la đà.
          Cung vàng cỏ mọc bao năm cũ,
          Điện ngọc rêu mờ mấy dặm qua.
          Một gánh càn khôn lưng chửa mõi,
          Tình thơ lai láng giữa trăng tà.

          4

          Tình thơ lai láng giữa trăng tà,
          Đãi bạn bày cờ thưởng thức hoa.
          Mã đội pháo đầu -công chớ thủ,
          Xa hoành sĩ ghết - để coi nhà.
          Bồ đào Cây Lý bạn ưa thích,
          Rượu Đế Gò đen thiệt ý ta.
          Bè bạn bao năm rồi gặp lại.
          Uống say một bữa để vui mà.

          5

          Uống say một bữa để vui mà,
          Văng vẵng đâu đây tiếng gọi la,
          Có phải tên reo ngoài Aỉ bắc,
          Hay quân giặc lấn chiếm Trường sa.
          “Thất phu hữu trách” lời cha dặn,
          “Tổ quốc lâm nguy” mẹ giữ nhà.
          Lữa dậy Đằng giang chôn Thát đát,
          Ai còn mê mãi khúc cuồng ca ?

          6

          Ai còn mê mãi khúc cuồng ca ?
          Hãy dậy mà đi cứu nước nhà.
          Kiếm nữ nhi bêu đầu quĩ dữ,
          Gươm anh hùng bạt viá quần ma.
          Giang sơn đất Việt ngời tươi sáng,
          Tổ quốc trời Nam rạng chói lòa.
          Ta kẻ tài hèn thêm trí mọn,
          Xin cùng góp sức dẹp can qua.

          7

          Xin cùng góp sức dẹp can qua,
          Một cắc một đồng cũng bỏ ra.
          Chẳng ngại thuyền to cùng tiến bước,
          Đừng lo sóng dữ cứ xông pha.
          Giặc còn đương mạnh nên ham chiến,
          Ta lực chưa sung giữ thế hòa.
          Chờ lực cân bằng ta quyết đánh,
          Địch thôi còn lại những hồn ma.

          8

          Địch thôi còn lại những hồn ma,
          Bỏ thói ngông cuồng hiếp đáp ta.
          Địch cậy tàu- h àng -không -mẫu -hạm,
          Ta nhờ hỏa -tiển -bắn -tắm -xa.
          Biển Đông rực sáng dòng sông lữa,
          Gió Bắc vùi thây bọn ác tà,
          Bỏ tật nghênh ngang bành với trướng .
          Núi sông trở lại cảnh an hòa.

          9

          Núi sông trở lại cảnh an hòa,
          Khắp xóm thôn làng rộn tiếng ca,
          Em bé tung tăng bên luống cải.
          Bà vui ca hát với nương cà.
          Cánh cò lơi lã trong sương sớm,
          Đàn nghé thong dong bãi cỏ xa.
          Chú mục đồng nghêu ngao sáo thổi,
          Vi vu trong gió tiếng nghê à !.

          10

          Vi vu trong gió tiếng nghé à.!
          Cạnh suối bên dòng nước chảy ra,
          Sơn nữ mơ màng yên lặng hát,
          Bên chàng lãng tử ngắm mây xa.
          Thôn làng quê cũ càng xinh đẹp,
          Phố xá ngày xuân rực rỡ hoa.
          Ông lão ngày vui thêm tuổi thọ,
          Chàng trai thương vợ hát ngân nga.

          11

          Chàng trai thương vợ hát ngân nga,
          Mặt biển chiều hôm sóng gợn xa.
          Đôi cánh bườm xanh căng gió thổi,
          Một vầng mây trắng thoảng bay qua.
          Chín chiều ruột thắt thương quê mẹ,
          Một tấc lòng son nhớ đất cha .
          Lòng thấy QUÊ HƯƠNG bao xiết đẹp,
          TRỜI NAM MƯA THUẬN GIÓ CHAN HÒA.
          Duong Lam

          ĐỨC PHẬT BÁO ÂN CHA MẸ

          ĐỨC PHẬT BÁO ÂN CHA MẸ

          [thi hóa Duong Lam]

           
          Một thuở xưa Đức Phật
          Ngự vườn Xà Kỳ Quất
          Với mấy vạn Tỳ Kheo
          Và mấy ngàn Bồ Tát
          Chư thiên rải hoa ngọc
          Dưới đất tận trên trời
          Đều cung kính Như Lai
          Cầu duyên cùng học đạo
          Khi ấy vào buổi sáng
          Tôn giả A-nan -đà
          Thị giả Đức Thế tôn
          Vào thành đi khất thực
          Bỗng có hai mẹ con
          Ăn xin Bà la Môn
          Cũng đi theo thứ lớp
          Xin bố thí thức ăn...
          Tôn giả để ý rằng
          Mỗi khi được món ngon
          Con dâng hết phần mẹ
          Còn những thứ hư thối
          Con dành hết cho con...
          A- nan-Đà thấy vậy
          Lòng bao xiết vui mừng
          Quý hóa thay! những kẻ
          Hiếu thảo với song thân...
          Lúc đó có ngọai đạo
          Tà kiến với Như Lai
          Khi nghe lời khen ngợi
          Bèn lên tiếng chê bai...
          “Thầy của các anh đó
          Mới thật là bạc phuc
          Mẹ mới sinh bảy ngày
          Chết đi để côi cút...”
          Tôn giả nín lặng thinh
          Khi xong về chỗ Phật
          Cầu xin Đức Thế Tôn
          Sự hiếu dưỡng mẹ cha
          [Pháp Phật dạy thế nào
          Xin chỉ cho con biết...]
          Đức Phật bảo A-nan
          Những điều ông vừa nói
          Do tự trong thâm tâm
          Hay do người khác hỏi
          Tôn giả bèn thuật lại
          Lời chê bai khác lạ
          Của kẻ ngoại đạo kia
          Về mẫu thân của Phật
          [Như là một nhục mạ..]
          Đức Thế tôn mĩm cười
          Từ giữa trán của Người
          Phóng ra muôn màu sắc
          Qua vô lượng cõi Phật
          Với vô lượng hào quang
          Qua ức ngàn cõi kiếp... [còn tiếp]
             Duong Lam                                             
           
          [...Kỳ sau Đức Phật trả lời A-Nan- Đà] 
            
           
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 19.11.2013 11:16:06 bởi duonglam >

           

          GIỞN TUYẾT RƠI (họa)--

          TỰ KỶ

          Đã mấy năm qua hụt hẫng đời
          Thăng bằng cố giữ, mạng rong chơi
          Vần thơ tìm ý quên sầu ám
          Câu chữ qua ngày đổi khổ vơi
          Lạm tiếng thày trò mươi tử de
          Giao tình thi hữu bốn phương trời
          Thời gian thuốc đắng chờ quên lãng
          Canh cánh vàng thu lá lại rơi.

          Cao Linh Tử

          GIỞN TUYẾT RƠI (họa)
           
          Quẩy gánh thơ đi giữa chợ đời,

          Lãng quên ngày tháng cứ rong chơi

          Rựợu nồng một hủ ...thôi say khướt,

          Thơ thẩn dăm vần ...há dễ vơi...'

          Canh bạc trần ai - thương dậu đổ

          Ván cờ nhân thế - giận mây trời

          Đầu thu nhắp chén hoàng hoa tửu

          Mà ngở mình say giởn tuyết rơi...

          Duong Lam [Tu lang thang]
           
           

          BẮC BÌNH VƯƠNG NGUYỄN HUỆ

          Thơ Cờ Tướng
          ----------------
           ĐẮC THẮNG
           
          Ngất trời khí thế trước ba quân.
          Chiến thắng kinh thiên cả vạn lần.
          Rừng nuí đông tây tràn vó ngựa.
          Sông hồ nam bắc lập danh thân.
          Gươm thiêng khiếp đảm quân sơn giặc.
          Mưu chuớc chiêu an đám quỷ thần.
          Đứng dưới mặt trời cười đắc thắng.
          Hỏi trong thiên hạ dám tranh phân.
          TMTrần Mạnh Hùng
          BẮC BÌNH VƯƠNG NGUYỄN HUỆ
          Anh hùng cái thế giữa muôn quân
          Hào kiệt uy nghi gấp vạn lần
          Ngang dọc sông hồ như dũng sĩ
          Tung hoành cung kiếm tựa chinh nhân
          Mưu thần một chước tan đồn giặc [1]
          Kiếm thế đôi chiêu khiếp quỉ thần
          Uy vũ Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ
          Sơn hà ai kẻ dám tranh phân...
          Tú lang thang
          [1] Mưu thần một chuớc tan đồn giặc...
          Ngày 29 tháng 1, Quang Trung dùng các toán quân nhỏ đánh khiêu khích ngoại vi Ngọc Hồi tạo sự căng thẳng cho quân Thanh và gây bất ngờ cho cánh quân đô đốc Long đánh đồn Đống Đa. Mờ sáng 30 tháng 1 (mùng 5 Tết), quân Tây Sơn bắt đầu tấn công từ hướng nam: mở đầu, đội tượng binh (trên 100 voi chiến) đánh tan phản kích của kị binh Hứa Thế Hanh; tiếp sau, bộ binh (gồm 600 quân cảm tử chia làm 20 toán), trang bị đoản đao, ván chắn bằng gỗ quấn rơm ướt che mình, tiến thành hàng ngang áp sát chiến luỹ, tạo điều kiện cho đại quân Quang Trung tiến lên giáp chiến. Quân Thanh chống không nổi, chết và bị thương quá nửa. Đề đốc Hứa Thế Hanh và tả dực Thượng Duy Thăng bị giết.Số tàn quân do tiên phong Trương Triều Long chỉ huy bỏ chạy về Thăng Long, nhưng bị chặn trên đường rút (gần Văn Điển ngày nay) buộc phải chạy theo hướng Đầm Mực. Tại đây, quân của đô đốc Bảo đã phục kích sẵn, tiêu diệt toàn bộ. Ngọc Hồi thất thủ, quân Tây Sơn thừa thắng đánh chiếm đồn Văn Điển và tiến thằng vào Thăng Long .Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tư.
          -----------------------------------------------------------------------------------


           Xin mời các bạn thưởng thức: Ván cờ Kinh động trời đất
          Mời các huynh đbấm vào hàng chữ duới đây để xem:
          Ván cờ Kinh động trời đất - YouTube
           hay trận đánh " Tốc chiến tốc thắng của
          BẮC BÌNH VƯƠNG NGUYỄN HUỆ"

          HAI BÀ TRƯNG--BÀ TRIỆU ẨU : TRIỆU THỊ TRINH--HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA VU QUI....

          RE: THƯƠNG VỀ ĐẤT MẸ 10.03.2013 10:31:05 (permalink)
          0





          TRANG THƠ ĐƯỜNG : GƯƠNG DANH NHÂN
          Nhân ngày lễ 8-3 xin mời cùng nhau đọc : GƯƠNG HAI VỊ NỮ ANH HÙNG DÂN TỘC :


          HAI BÀ TRƯNG





          Giáp bạc yên vàng giục giã cương,

          Cờ bay kiếm bạt dậy sa trường.

          Long thành [1] gót ngọc an bờ cõi,

          Nam quốc má hồng định nghiệp vương.

          Nợ nước duyên chồng thề một dạ,

          Tình em nghĩa chị nguyện chung đường.

          Ngàn thu gái Việt còn kiêu hãnh,

          Má phấn muôn đời tõa sắc hương

          Dương Lam



          [1] Long thành [thành Long biên địa danh Hà nội thời bấy giờ]

          -------------------------------------

          Bà Trưng quê ở Châu Phong

          Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên [3]

          Chị em nặng một lời nguyền

          Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân

          Ngàn tây nổi áng phong trần

          Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên

          Hồng quần nhẹ bước chinh yên

          Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành

          Kinh kỳ đóng cõi Mê Linh

          Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta

          Ba thu gánh vác sơn hà

          Một là báo phục hai là Bá Vương

          Uy danh động tới Bắc Phương

          Hán sai Mã Viện lên đường tấn công

          Hồ Tây đua sức vẫy vùng

          Nữ nhi địch với anh hùng được sao!

          Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèo

          Chị em thất thế cùng liều với sông!

          Trước là nghĩa, sau là trung

          Kể trong lịch sử anh hùng ai hơn...

          [Việt nam Quốc sữ diễn ca]







           
            duonglam
            "Super Member"
            • Số bài : 1906
            • Điểm: 0
            • Điểm thưởng : 0
            • Từ: 31.08.2010
            • Trạng thái: offline


            RE: THƯƠNG VỀ ĐẤT MẸ 18.03.2013 09:16:24 (permalink)
            0
            TRANG THƠ ĐƯỜNG : GƯƠNG DANH NHÂN
             
            BÀ TRIỆU ẨU : TRIỆU THỊ TRINH  Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người ta"

            BÀ TRIỆU ẨU : TRIỆU THỊ TRINH




            Đạp cơn sóng dữ quậy ngông cuồng
            Chém cá tràng kình dậy biển Đông
            Giúp nuớc xây nhà xua giặc mạnh
             
            Dương cờ khởi nghĩa dựng binh hùng

             Bồ Điền[ 1] giữa trận so đao kiếm
            Ngô Việt [2] bên trời lập chiến công
            Nữ tướng Nhụy Kiều danh nỗi tiếng [3]
            Ngàn sau rạng rỡ núi non Tùng [ 4]
            Duong Lam [Tú lang thang]

            [1] Bồ- Điền : căn cứ địa xảy ra những trận quyết liệt giữa quân Bà và quân Ngô... 

            [2]Ngô-Việt : Đông Ngô và Việt Nam
            [2]  Nhụy Kiều : Vị tướng yêu kiều như nhuỵ hoa.
            [3]  non Tùng : Nơi Bà tuẫn tiết...sau có đền thờ Bà...
            --------------------------------------------------------------
            Cuộc Khởi Nghĩa Của Triệu Thị Trinh (248)
            (Bà Triệu)
            "Muốn coi lên núi mà coi
            Có Bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng"
            Khi nói đến gương anh hùng liệt nữ, đến truyền thống đấu tranh xâm lược của ngoại bang, người Việt Nam qua nhiều thời đại thường không quên nhắc đến cái tên Bà Triệu bên cạnh các gương liệt nữ khác như Hai Bà Trưng...
            Triệu thị Trinh sinh ngày 2 tháng 10 nǎm 226 (Bính Ngọ) tại huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hoá trong một gia đình hào trưởng. Triệu thị Trinh là một phụ nữ có tướng mạo kỳ là, người cao lớn vú dài nǎm thước. Bà là người tính tình vui vẻ, khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, trí lực hơn người. Truyền thuyết kể rằng, có lần xuất hiện một coi voi trắng một ngà phá phách ruộng nương, làng xóm, lầm chết người. Triệu Thị Trinh dũng cảm cầm búa nhảy lên đầu giáng xuống huyệt làm con voi lạ gục đầu xin qui thuận.
            Khi nhà Ngô xâm lược đất nước gây nên cảnh đau thương cho dân chúng, khoảng 19 tuổi Triệu thị Trinh bỏ nhà vào núi xây dựng cǎn cứ, chiêu mộ nghĩa quân đánh giặc. Khi anh trai nhắn về nhà chồng, bà đã trả lời tỏ rõ khí phách của mình mà đến nay không mấy người Việt Nam là không biết: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá Kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ tôi không chịu khom lưng là tì thiếp người ta". Truyền thuyết kể rằng, nǎm 248 khi Triệu Thị Trinh khởi nghĩa trời đã sai đá núi loan tin tập hợp binh sĩ trong vùng. Đêm khuya từ lòng núi đá phát ra rằng: "Có Bà nữ tướng. Vâng lệnh trời ra. Trị voi một ngà. Dựng cờ mở nước. Lệnh truyền sau trước. Theo gót Bà Vương". Theo đó dân chúng trong vùng hưởng ứng nhiệt liệt, có người mang theo cả bộ giáp vàng, khǎn vàng.... dâng cho bà. Anh trai bà là Triệu Quốc Đạt được tôn làm Chủ tướng. Bà Triệu là Nhuỵ Kiều tướng quân (Vị tướng yêu kiều như nhuỵ hoa). Khi ra trận Bà mặc áo giáp vàng, chít khǎn vàng, đi guốc ngà, cưỡi voi một ngà. Quân Bà đi đến đâu dân chúng hưởng ứng, quân thù khiếp sợ. Phụ nữ quanh vùng thúc giục chồng con ra quân theo Bà Vương đánh giặc. Cho đến nay nhân dân vùng Thanh Hoá và lân cận còn nhiều câu ca, lời ru con nói về sự kiện này.
            Sau hàng chục trận giao tranh với giặc, trận thứ 39 anh trai bà là Triệu Quốc Đạt tử trận, Bà Triệu lên làm chủ tướng và lập nên một cõi giang sơn riêng vùng Bồ Điền khiến quân giặc khó lòng đánh chiếm. Biết bà có tính yêu sự trong sạch , ghét quân dơ bẩn, quân giặc bố trí một trận đánh từ tướng đến quân đều loã thể. Bà không chịu được chiến thuật đê hèn đó phải lui voi giao cho quân sĩ chiến đấu rồi rút về núi Tùng. Bà quì xuống vái trời đất: "Sinh vi tướng, tử vi thần" (Sống làm tướng, chết làm thần) rồi rút gươm tự vẫn.
            Đến nay chuyện Bà Triệu từ thế kỷ thứ II vẫn còn hằn đậm trong tâm thức mỗi người Việt Nam với lòng ngưỡng mộ và tự hào. Lǎng và đền thờ Bà vẫn còn mãi với thời gian tại huyện  Hậu Lộc tỉnh Thanh Hoá là di tích lịch sử quan trọng của quốc gia là bằng chứng về niềm tự hào một người phụ nữ liệt oanh của Dân tộc Việt Nam.
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.03.2013 09:26:29 bởi duonglam >
             
              duonglam
              "Super Member"
              • Số bài : 1906
              • Điểm: 0
              • Điểm thưởng : 0
              • Từ: 31.08.2010
              • Trạng thái: offline


              RE: THƯƠNG VỀ ĐẤT MẸ 28.03.2013 09:11:07 (permalink)
              0
              HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA VU QUI....

              Quê huơng nghìn dặm bước ra đi ,  
              Đâu thẹn hồng nhan kiếp nữ nhi…
               Nước Việt ngàn trùng mây thăm thẳm ,
              Non Chiêm muôn dặm nước xanh rì.
              Hai châu Ô, Rí sông liền núi, [1]
              Một đấng Huyền Trân sử khắc ghi….[2]

              Bên nước bên tình đều nghĩa trọng,
              Lên thuyền công chúa bước vu quy…
              Duong Lam 
              Chú thích:
              [1] Năm 1306, thể theo lời ước gả Công Chúa Huyền Trân của Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông ( năm 1301 ) trong dịp viếng thăm thân hữu Việt Nam  -  Chiêm Thành, vua Chiêm Thành, Chế Mân dâng đất hai Châu Ô, Châu Rí làm sính lễ để xin cưới Công Chúa Huyền Trân.
               Năm 1307, sau nghi lễ tiễn Công Chúa Huyền Trân về Chiêm quốc, vua Trần Anh Tông tiết thu 2 Châu Ô và Châu Rí, di dân khẩn hoang, lập ấp và đổi tên là Thuận Châu (Bắc Hải Vân Quan) và Hóa Châu (Nam Hải Vân Quan). Dân Chiêm Thành bỏ đất lui về phía Nam.
               [2]
              Huyền Trân công chúa
              Ngày xưa, vào đời nhà Trần, vua Trần Nhân Tông sau khi đã truyền ngôi cho con là Trần Anh Tông, lên tu ở núi Yên Tử, mến cảnh núi sông thường hay đi du ngoạn các nơi, vào đến đất Chiêm. Trong khi ở Chiêm Thành, vua Chế Mân biết du khách khoác áo cà sa là Thượng Hoàng nước Việt, nên lấy tình bang giao mà tiếp đãi nồng hậu. Không rõ Thượng Hoàng vân du có ý định mở mang bờ cõi cho đất nước về phía nam không, hay vì cảm tình đối với ông vua trẻ tuổi Chiêm Thành mà hứa gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân.
              Vua Chiêm cử sứ giả Chế Bố Đài cùng đoàn tùy tùng hơn trăm người mang vàng bạc, châu báu, trầm hương, quý vậy sang Đại Việt dâng lễ cầu hôn. Triều thần nhà Trần không tán thành, chỉ có Văn Túc Đạo Tái chủ trương việc gả.
              Vua Chế Mân tiến lễ luôn trong năm năm để xin làm rể nước Nam, rồi dân hai châu Ô, châu Ri (từ đèo Hải Vân Thừa Thiên đến phía bắc Quảng Trị ngày nay) làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân về nước.
              Huyền Trân làm hoàng hậu nước Chiêm Thành được một năm thì vua Chế Mân mất. Thế tử Chiêm phái sứ giả sang Đại Việt dâng voi trắng và cáo về việc tang. Theo tục lệ nước Chiêm, vua mất thì cung phi phải lên hỏa đàn để tuẫn táng. Vua Trần Anh Tông hay tin vua Chiêm mất, sợ em gái là công chúa Huyền Trân bị hại, bèn sai võ tướng Trần Khắc Chung hướng dẫn phái đoàn sang Chiêm Thành nói thác là điếu tang, và dặn bày mưu kế để đưa công chúa về. Trần Khắc Chung trước kia đã có tình ý với Huyền Trân, song rồi vì việc lớn, cả hai cùng dẹp bỏ tình riêng, ngày nay lại được vua giao phó nhiệm vụ đi cứu công chúa.
              Sang đến nơi, Trần Khắc Chung nói với thế tử Chiêm Thành rằng: "Bản triều sở dĩ kết hiếu với Vương quốc vì vua trước là Hoàn Vương, người ở Tượng Lâm, thành Điển Xung, là đất Việt thường: hai bên cõi đất liền nhau thì nên yên phận, để cùng hưởng hạnh phúc thái bình cho nên gả công chúa cho Quốc vương. Gả như thế vì thương dân, chứ không phải mượn danh má phấn để giữ trường thành đâu! Nay hai nước đã kết hiếu thì nên tập lấy phong tục tốt. Quốc vương đây mất, nếu đem công chúa tuẫn táng thì việc tu trai không người chủ trương. Chi bằng theo lệ tục bản quốc, trước hãy ra bãi bể để chiêu hồn ở trên trời, đón linh hồn cùng về rồi mới hỏa đàn sau".
              Lúc bấy giờ các cung nữ của Huyền Trân biết rằng công chúa sẽ bị hỏa táng, nhưng không biết làm thế nào, thấy sứ Trần Khắc Chung tới mới hát lên một câu ngụ ý cho sứ Nam biết mà lo liệu cứu công chúa khỏi bị lên thang hỏa đàn:
              Đàn kêu tích tịch tình tang,
              Ai đem công chúa lên thang mà ngồi.
              Người Chiêm Thành nghe theo lời giải bày của Trần Khắc Chung, để công chúa Huyền Trân xuống thuyền ra giữa bể làm lễ Chiêu Hồn cho Chế Mân. Trần Khắc Chung đã bố trí sẵn sàng, cỡi một chiếc thuyền nhẹ chực sẵn trên bể, đợi thuyền chở công chúa ra xa, lập tức xông tới cướp công chúa qua thuyền mình, dong buồm ra khơi nhắm thẳng về phương bắc. Huyền Trân công chúa gặp lại người tình cũ đến cứu mạng nhưng hơn một năm mới về đến kinh.
              Về sau, các văn nhân thi sĩ cảm hứng về quãng đời lịch sử của công chúa Huyền Trân, đã mượn điệu hát, lời thơ mà làm nên nhiều bài còn truyền tụng đến ngày nay.
              Như khúc "Nước non ngàn dặm" theo điệu Nam Bình, mà có kẻ cho rằng chính công chúa đã soạn ra trong lúc đi đường sang Chiêm quốc...
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.03.2013 09:07:50 bởi duonglam >